LỄ HIỆN XUỐNG Chủ đề : Chúa Thánh Thần là nguyên lý hợp nhất
  • 04/06/2019
  • Quản trị

LỄ HIỆN XUỐNG

Chủ đề :

Chúa Thánh Thần là nguyên lý hợp nhất

 

“Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần”

(Ga 20,22)

 

Sợi chỉ đỏ :

– Bài đọc I : Tường thuật việc Chúa Thánh Thần hiện xuống hôm lễ Ngũ Tuần.

– Đáp ca : Lạy Chúa, xin cử Thánh Thần tới, để canh tân địa cầu.

– Bài đọc II : Chúng ta đã được chịu phép Rửa nhờ một Thánh Thần để trở nên một thân thể.

– Tin Mừng : Buổi chiều ngày phục sinh, Chúa Giêsu thổi hơi ban Thánh Thần cho các môn đệ.

Minh họa

– Mille images 196 A

– “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần” (Ga 20,22)

I. Dẫn vào Thánh lễ

Lễ Hiện xuống hôm nay kết thúc mùa Phục sinh. Chúng ta hãy nhìn lại những bước mà Phụng vụ đã dẫn chúng ta đi qua : Chúa Giêsu đã nhập thế sống với loài người, Ngài đi khắp nơi rao giảng Tin Mừng, rồi Ngài chịu nạn chịu chết, nhưng Ngài đã sống lại và lên trời. Hôm nay Ngài sai Chúa Thánh Thần đến để thánh hóa loài người. Như thế, Chúa Thánh Thần là Đấng hoàn tất chương trình cứu độ của Thiên Chúa. Dâng Thánh lễ hôm nay, chúng ta hãy xin Chúa tuôn đổ đầy tràn Thánh Thần xuống trên chúng ta, để chúng ta hoàn thành sứ mạng cứu độ bản thân chúng ta và mọi người.

II. Gợi ý sám hối

– Chúng ta có lỗi vì ít nghĩ đến Chúa Thánh Thần là Đấng Thiên Chúa đã ban để hỗ trợ chúng ta.

– Chúng ta thường làm việc theo suy nghĩ riêng chứ không theo sự soi sáng hướng dẫn của Chúa Thánh Thần.

– Chúa Thánh Thần muốn mọi người hiệp nhất với nhau, nhưng chúng ta thường chia rẽ.

III. Lời Chúa

  1. Bài đọc I: Cv 2,1-11 : Tường thuật việc Chúa Thánh Thần hiện xuống hôm lễ Ngũ Tuần.

– Vâng theo lời căn dặn của Chúa Giêsu phục sinh, các tông đồ tụ họp trong nhà Tiệc Ly để chờ đón nhận điều Ngài đã hứa.

– Sáng ngày lễ Ngũ tuần, Chúa Giêsu thực hiện lời hứa ấy : Chúa Thánh Thần đã ngự xuống trên các tông đồ dưới hình lưỡi lửa. Lưỡi tượng trưng cho lời nói. Lửa tượng trưng tình yêu và lòng nhiệt thành. Nhờ Chúa Thánh Thần, các tông đồ đã nhiệt thành rao giảng Tin Mừng, làm chứng cho Chúa Giêsu.

  1. Đáp ca: Tv 103

Tv này ca tụng những việc kỳ diệu mà Thiên Chúa đã làm do “sinh khí” của Ngài, tức là do Chúa Thánh Thần.

  1. Bài đọc II: 1 Cr 12,3b-7.12-13

Thánh Phaolô kêu gọi tín hữu đoàn kết hiệp nhất nhau trong Chúa Thánh Thần :

– Trong Giáo Hội sơ khai, Chúa Thánh Thần ban nhiều đặc sủng khác nhau cho các tín hữu. Nhưng mọi đặc sủng đều nhằm phục vụ lợi ích chung của cộng đoàn.

– Vì thế, một mặt các tín hữu phải tránh chia rẽ nhau, mặt khác phải tận dụng mọi ơn ban của Chúa Thánh Thần để xây dựng thân thể Giáo Hội.

  1. Tin Mừng: Ga 20,19-23

Buổi chiều chính hôm lễ phục sinh, Chúa Giêsu đã ban Thánh Thần cho các môn đệ (Theo quan điểm của Luca thì Thánh Thần được ban hôm lễ Ngũ tuần).

Chúa Thánh Thần được ban đồng thời với lời chúc bình an, quyền tha tội và lời sai các ông ra đi. Từ đó, ta có thể thấy được những ý nghĩa sau :

– Ơn ban cao trọng nhất của Chúa Thánh Thần là Bình an, đặc trưng của thời Messia.

– Ơn cao trọng thứ hai của Chúa Thánh Thần là Tha tội : chính nhờ được tha tội mà con người được bình an thật.

– Ơn ban Thánh Thần nhằm giúp Giáo Hội ra đi loan Tin Mừng cứu độ.

IV. Gợi ý giảng

  1. Hiệp nhất

Sách Công vụ tường thuật rằng khi Chúa Thánh Thần hiện xuống trên các tông đồ thì có nhiều hiện tượng lạ xảy ra, trong đó có hiện tượng các tông đồ giảng trước một đám đông thuộc nhiều ngôn ngữ khác nhau thế mà ai cũng hiểu được.

Thứ tiếng mà hôm đó các tông đồ nói là thứ tiếng gì ? Có nhiều giải thích khác nhau :

a/ Giải thích thứ nhất, các tông đồ nói ngoại ngữ : Hằng ngày các ông chỉ biết nói tiếng Do thái (đúng ra là tiếng Aram), vài ông cũng biết bập bẹ vài tiếng Hy lạp. Nhưng hôm đó, do ơn Chúa Thánh Thần các ông đột nhiên nói được ngoại ngữ khiến cho những người không phải Do thái mà cũng không phải Hy lạp cũng hiểu được.

Giải thích này không đúng, bởi vì dù các tông đồ nói ngoại ngữ thì cũng chỉ một vài ngoại ngữ mà thôi. Thế mà hôm đó thính giả thuộc nhiều ngôn ngữ : Bài tường thuật đã liệt kê đến mười mấy thứ tiếng. Làm sao các ông có thể nói đồng thời mười mấy thứ tiếng ấy được !

b/ Giải thích thứ hai, các tông đồ nói bằng một thứ tiếng hoàn toàn mới lạ, từ chuyên môn trong Thánh kinh gọi đó là Glossolalie : nghĩa là không phải tiếng Do thái, cũng không phải tiếng Hy lạp, cũng không phải thứ tiếng nào trong mười mấy thứ tiếng kia. Nhưng Chúa Thánh Thần khiến cho mọi người đều hiểu. Giải thích này cũng chưa đúng, bởi vì tuy Thánh kinh cũng ghi nhận nhiều trường hợp các Kitô hữu có nói glossolalie, nhưng vì tiếng này quá lạ cho nên phải có người cũng được ơn đặc biệt của Chúa Thánh Thần giúp người đó hiểu và dịch lại cho những người khác. Trong bài tường thuật này, ta thấy thính giả không cần ai dịch mà vẫn hiểu, cho nên đó không phải là glossolalie.

c/ Giải thích thứ ba, các tông đồ nói bằng tiếng Do thái quen thuộc của các ông, nhưng Chúa Thánh Thần giúp cho thính giả hôm đó thuộc đủ mọi thứ tiếng khác nhau cũng hiểu được.

Việc giải thích chi tiết tiếng nói hôm đó của các tông đồ còn nhiều khó khăn, nhiều bất đồng và đến nay vẫn chưa ngã ngũ.

Nhưng có điểm này được hầu hết các nhà chuyên môn về Thánh kinh đều nhất trí : đó là câu chuyện hôm lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống là đối ảnh của câu chuyện tháp Babel ngày xưa. Ngày xưa ở Babel, con cháu ông Noe đang nói cùng một thứ tiếng, nghĩa là đang hiểu nhau, bỗng dưng vì tội kiêu ngạo muốn xây một cái tháp cao hơn trời để tỏ ra mình hơn Thiên Chúa nên bị phạt khiến họ nói nhiều thứ tiếng, làm cho người này không hiểu người kia được nữa. Chuyện Tháp Babel ngụ ý rằng khi con người không được Thiên Chúa quy tụ thì sẽ chia rẽ nhau, không hiểu nhau và không thông cảm được cho nhau.

Chúa Thánh Thần hiện xuống sửa lại sự hư hại đó : Hôm lễ Ngũ Tuần, tất cả mọi người dù thuộc những dân tộc và những ngôn ngữ khác nhau nhưng đã hiểu nhau. Nhờ đâu ? Thưa nhờ Chúa Thánh Thần quy tụ họ lại. Chúa Thánh Thần nối kết họ lại.

Bài tường thuật trong sách Công vụ cho chúng ta một bài học về sự đoàn kết hiệp nhất giữa những người vốn có nhiều điểm bị biệt nhau.

  1. Ai ai cũng thấy đoàn kết hiệp nhất là cần thiết, quan trọng và hữu ích :

– Ca dao có câu “Một cây làm chẳng nên non…”

– Và còn một câu khác : “Đoàn kết thì sống, chia rẽ thì chết”.

– Còn sách Công vụ thì kể rằng sở dĩ thuở ban đầu giáo hội phát triển nhanh rộng là nhờ các tín hữu rất đoàn kết yêu thương nhau, người lương thấy cuộc sống hiệp nhất yêu thương ấy quá tốt đẹp và đầm ấm nên thích và xin gia nhập Giáo hội.

  1. Nhưng làm sao để có đoàn kết và hiệp nhất ?

– Theo thiển ý, muốn có đoàn kết hiệp nhất thì trước hết phải biết tôn trọng sự dị biệt. Nhiều khi những người sống chung trong tập thể cứ hục hặc nhau hay buồn phiền nhau chỉ vì người này khó chịu vì người kia có tính tình khác mình, có cách suy nghĩ khác mình, có sở thích khác mình… Thấy người ta khác mình là mình bực bội, mình phê phán, mình ghét bỏ. Thực ra “bá nhân bá tánh”. Và khi Thiên Chúa dựng nên người ta, Người cũng dựng nên mỗi người có nét riêng của người đó. Nói theo từ ngữ triết học thì mỗi người là một hữu thể độc đáo. Ta phải tôn trọng sự dị biệt nơi người khác. Đừng ai bắt ai phải có cùng một cá tính, một cách suy nghĩ, một cách làm việc, một sở thích giống y như mình. Thấy người ta khác mình nhưng mình vẫn tôn trọng người ta, đó là cơ sở thứ nhất tạo sự đoàn kết hiệp nhất.

– Điều kiện thứ hai, khi ta đã tôn trọng sự dị biệt nơi người khác thì ta phải biết tương nhượng, nghĩa là nhường nhịn nhau. Vì bá nhân bá tánh nên có nhiều lúc trong cuộc sống chung, ý của người này và người kia khác nhau. Nếu hai bên cứ khăng khăng đòi người kia phải theo ý mình thì đương nhiên sẽ dẫn tới cãi cọ hoặc bất mãn không hợp tác. Cho nên mỗi bên phải nhường một chút. Quyết định chung là kết quả của sự dung hòa ý kiến của hai bên.

– Điều kiện thứ ba, nhưng là điều kiện quan trọng nhất, đó là mọi người đều ý thức rằng mình có chung một nguồn gốc, một tinh thần. Cũng như anh chị em trong gia đình dễ tương nhượng nhau, dễ tha thứ nhau, dễ đoàn kết hiệp nhất với nhau và nhờ mọi người ý thức mình là con của cùng một cha mẹ sống chung trong một mái nhà. Thì cũng thế chúng ta ý thức rằng ai ai dù thế nào đi nữa thì cũng là con người, cũng là đồng bào với nhau thì sẽ dễ đoàn kết nhau hơn. Đối với chúng ta những người Kitô hữu, nếu chúng ta ý thức thêm rằng chúng ta là môn đệ Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa thì chúng ta cũng dễ yêu thương nhường nhịn và đoàn kết với nhau hơn. Nhưng ai sẽ nhắc chúng ta ý thức điều đó và ai sẽ giúp chúng ta thực hiện đoàn kết hiệp nhất theo ý thức đó ? Thưa Chúa Thánh Thần.

Hôm nay lễ Chúa Thánh Thần, chúng ta hãy tha thiết cầu xin Ngài giúp chúng ta.

– Trước hết là biết tôn trọng sự dị biệt nơi những người sống chung với ta.

– Thứ hai xin Ngài giúp mỗi người chúng ta thêm khiêm tốn để có thể tương nhượng người khác khi có bất đồng.

– Và nhất là xin cho mọi người ý thức mình đều là con Chúa, đều là môn đệ Chúa cho nên đều phải yêu thương nhau.

  1. Tái tạo

Bài Tin Mừng hôm nay kể chuyện các môn đệ Chúa Giêsu tự nhốt mình trong một căn phòng đóng kín các cửa, lòng đầy sợ sệt. Nhưng sau đó Chúa Giêsu đến với họ và sai họ ra đi, khi đó lòng họ vui mừng và bình an.

Chuyện xảy ra với các môn đệ ngày xưa cũng là chuyện thường xuyên xảy ra cho chúng ta ngày nay. Vậy chúng ta hãy xem lại từng bước câu chuyện này.

  1. Bước thứ nhất : các môn đệ nhốt mình trong phòng kín. Đây là tâm lý co cụm, khép kín. Một tâm lý thường xảy ra. Chắc nhiều người đã biết chuyện Lan và Điệp. Hai người yêu nhau tha thiết. Nhưng Điệp bị gài bẫy nên bị bó buộc phải cưới một người khác. Lan buồn quá. Rồi Lan làm gì ? Lan co cụm lại bằng cách đi vào trốn trong chùa. Lan không muốn gặp gỡ ai cả nên trong chùa có một chiếc chuông để khi ai muốn gặp người nào trong chùa thì kéo chuông. Lan cắt đứa luôn sợi dây chuông ấy, nghĩa là cắt đứt hẳn mọi liên hệ với một người khác.

Trong cuộc sống, nhiều khi chúng ta vì nhiều lý do nên cũng rơi vào tâm lý co cụm khép kín như thế. Lý do của Lan là thất tình. Có người khác co cụm vì thất vọng. Có người khác nữa vì mặc cảm tội lỗi. Còn lý do của các tông đồ trong tường thuật này là sợ : các ông coi ai cũng là kẻ thù có thể hại mình bất cứ lúc nào nên co rút vào trong phòng và đóng kín các cửa lại. Nhưng ta nên biết con người là một hữu thể mang tính xã hội. Làm người là phải sống với những người khác. Càng sống với chừng nào thì càng đúng là người chừng nấy. Khi ai đó co cụm lại, rút vào vỏ sò thì kể như người ấy không còn là người nữa, người ấy như đã chết.

  1. Ta hãy trở lại câu chuyện Lan và Điệp. Vì Lan đã cắt đứt dây chuông nên Điệp không đến với Lan được. Hai người không bao giờ gặp nhau nữa và dần dần chết héo chết mòn. Chuyện tình của họ đi vào ngõ cụt không lối thoát. Còn câu chuyện trong bài Tin Mừng này thì khác hẳn. Các tông đồ đóng kín cửa không muốn gặp ai, nhưng Chúa Giêsu thì chủ động tìm gặp họ. Họ không có khả năng đến với Chúa thì Chúa chủ động đến với họ. Như thế là Ngài phá vỡ một chiều hướng của sự co cụm. Nói cách khác, Chúa Giêsu mở cho họ một cánh cửa, cánh cửa mở ra phía Chúa. Ngài còn mở cho họ cánh cửa thứ hai hướng về phía tha nhân bằng cách sai họ đi, đi ra khỏi thế co cụm của mình để đến với người khác. Con người là một hữu thế có tính xã hội, làm người là phải sống với người khác. Khi con người cắt đứt mọi liên hệ thì người đó kể như chết. Nay Chúa Giêsu đến với các tông đồ và còn sai họ đến với người khác tức là Ngài nối lại những mối giây liên hệ, tức là Ngài làm cho họ sống lại. Nói đứng hơn, Chúa Giêsu đã tái tạo các môn đệ.
  2. Nhờ đâu mà Chúa Giêsu tái tạo được các môn đệ như thế. Thưa nhờ Chúa Thánh Thần. Bài Tin Mừng này có một chi tiết hàm chứa ý nghĩa rất sâu. Đó là Chúa Giêsu thổi hơi trên các môn đệ. Cũng như ngày xưa Adam ban đầu chỉ là một tượng bằng bùn đất, nhưng ngay khi Thiên Chúa thổi hơi vào thì tượng bùn đất ấy trở thành người. Thì ngày nay cũng thế, Chúa Giêsu thổi hơi vào các tông đồ. Làn hơi ấy chính là Chúa Thánh Thần, nhờ Chúa Thánh Thần mà các môn đệ đã được tái tạo lại thành những con người mới.
  3. Những con người mới này có những gì đặc biệt : thưa cái đặc biệt thứ nhất là niềm vui. Bài Tin Mừng nói “các tông đồ vui mừng vì thấy Chúa”; cái đặc biệt thứ hai là bình an : không còn sợ gì nữa cả nhưng lòng rất thanh thản. Bài Tin Mừng viết “Chúa Giêsu đứng giữa các ông và nói : bình an cho chúng con”; và cái đặc biệt thứ ba là mang ơn tha thứ đến cho những người khác. bài Tin Mừng nói “Chúng con hãy nhận lấy Thánh Thần. Chúng con tha tội cho ai thì tội người ấy được tha”.

Nhiều khi chúng ta rơi vào tâm trạng sợ sệt, bất an, mặc cảm tội lỗi. Khi đó chúng ta co cụm lại, rút lui vào nỗi cô đơn của mình và không muốn gặp ai cả. Tình trạng này thật là buồn chán. Phải sống trong tình trạng này thì chẳng khác nào như đã chết. Do đó cần phải có ai đó giúp chúng ta thoát khỏi tâm trang bất thường ấy. Người ấy là ai ? Thưa chính là Chúa Thánh Thần. Chúa Thánh Thần là Đấng tái tạo những gì suy sụp và hư mất. Hôm nay cùng với Giáo Hội chúng ta mừng kính Chúa Thánh Thần. Nếu có gì đang khiến chúng ta buồn sầu co cụm khép kín, chúng ta hãy bày tỏ với Ngài và xin Ngài giải thoát chúng ta, tái tạo chúng ta thành con người mới, an bình, vui tươi, vui sống với mọi người.

  1. Ngôn ngữ của toàn cầu

Ngôn ngữ là phương cách thông tin, biểu lộ tâm tình cho nhau và dùng để liên lạc với nhau trong cuộc sống. Bất cứ dân tộc nào trên mặt đất cũng đều có ngôn ngữ cho mình. Trong niềm tin đạo giáo chúng ta dùng ngôn ngữ gì để bày tỏ tâm tư của mình với Chúa ? Và Chúa dùng ngôn ngữ gì để thông tin nói với ta ?

Nói với Chúa chúng ta dùng ngôn ngữ của ta, vì Ngài hiểu được hết. Còn khi Chúa nói với chúng ta, Ngài cũng dùng ngôn ngữ của chúng ta. Nhưng khi nói loan truyền lời Chúa cho các dân tộc khác nhau về ngôn ngữ, ngôn ngữ gì được xử dụng để mọi người có thể nghe hiểu được ?

Kinh Thánh thuật lại phép lạ ngày lễ Chúa Thánh hiện xuống như sau : Gió thổi đến và lửa chiếu dọi ánh sáng cùng mang hơi nóng trên các Tông Đồ. Đó là dấu chỉ sự hiện diện của Chúa Thánh Thần, người từ nay thay Chúa Giêsu cùng đồng hành với họ và trong Hội Thánh Công Giáo. Khi Chúa Thánh Thần xuống trên các Tông Đồ, Ngài mang đến cho các Ông luồng gió mới. Luồng gió mới này làm các ông phấn khởi tung cửa đứng ra trước công chúng nói về Chúa Giêsu là con Thiên Chúa đã sinh ra, đi khắp nơi rao giảng tin mừng nước Thiên Chúa, chữa lành bệnh tật cho người đau ốm, mang niềm an ủi cho người bị bỏ rơi, bị đau khổ, sau cùng đã chết và đã sống lại. Các ông được ơn lạ nói những thứ ngôn ngữ của tất cả những người hôm đó hiện diện nghe các ông. Chúa Thánh Thần ban cho các Tông Đồ ân đức nói thứ ngôn ngữ mà tất cả mọi người cùng hiểu được, bất kể họ đến từ xứ sở nào…

Phép lạ này nói lên quyền năng của Thiên Chúa thực hiện nơi con người. Ngày xưa, con người cũng đã có lần toan tính xây cây tháp Babel chạm tới tầng trời, nhưng Thiên Chúa đã phá huỷ toan tính kiêu ngạo của họ bằng các ngôn ngữ khác nhau. Vì ngôn ngữ bất đồng, họ không thể thông hiểu nhau, nên công trình đó đã tan hoang. (St 11,1-9)

Máy vi tính ngày nay là phát minh mới lạ của con người. Máy cũng có một thứ ngôn ngữ riêng. Ngôn ngữ của máy vi tính xây dựng trên cơ sở lý luận toán học và sự chính xác. Ngôn ngữ máy vi tính giúp con người rất nhiều trong việc thông tin và trao đổi liên lạc với nhau nhanh chóng.

Trong đời sống, con người chúng ta dùng ngôn ngữ tiếng mẹ đẻ như Anh, Pháp, Việt Nam… cho nhu cầu thông tin liên lạc với nhau. Nhưng có một thứ ngôn ngữ ngay từ thuở sơ sinh ai chúng ta cũng có, cũng biết : ngôn ngữ tình yêu, ngôn ngữ vỗ về âu yếm, ngôn ngữ sưởi ấm tâm hồn. Khi ngôn ngữ này được nói ra bằng âm thanh hay biểu lộ qua nét mặt nụ cười của ông bà cha mẹ, anh chị em, tất cả mọi người đều hiểu được cả.

Ngôn ngữ tình yêu này phát xuất từ trái tim tâm hồn, nên gọn nhẹ trong sáng và truyền đi tín hiệu nhanh chóng nhậy cảm ngay từ những giây phút đầu tiên của sự sống một con người. Qua ngôn ngữ này mối liên lạc tình người được xây dựng từ cha mẹ tới con cái còn thơ bé, con người với nhau trong đời sống, Thiên Chúa với công trình sáng tạo của Ngài trong hoàn vũ và con người với Thiên Chúa.

Ngôn ngữ này không viết bằng mẫu tự A B C hay hình vẽ biểu tượng như chữ Nho, chữ Thailan, chữ Ảrập… cũng không bằng những dấu hiệu chương trình lý luận toán học như ngôn ngữ của máy vi tính. Nhưng ngôn ngữ này từ bẩm sinh nằm ẩn sâu trong trái tim tâm hồn mỗi người. Mỗi người đều có chương trình ngôn ngữ này và đều có thể sử dụng được chương trình này.

Dù là tiếng mẹ để, ta cũng cần phải học, phải mài dũa, phải sửa đổi mới hoàn chỉnh trong sáng văn phạm cùng câu cú. Dù là ngôn ngữ đã được hệ thống và cài sẵn chương trình chạy trong máy vi tính, người sử dụng máy cũng vẫn phải học cách sử dụng điều khiển sao cho đúng không bị sai lầm.

Những sai lầm trong tiếng mẹ đẻ và trong ngôn ngữ máy vi tính là do con người sử dụng gây ra. Và chúng ta phải điều chỉnh lại cách sử dụng cho đúng. Trong ngôn ngữ tình yêu cũng thế, khi chương trình ngôn ngữ này chạy không đúng là do con người gây ra. Thiên Chúa ghi trong tâm hồn mỗi người chương trình ngôn ngữ này, nhưng khi sử dụng hoặc là con người không dùng đúng chương trình này hoặc là muốn sử dụng chương trình sai riêng của mình. Vì thế sinh ra sai lầm và không còn truyền đi tín hiệu thông tin, hiểu nhau được nữa.

Những sai lầm này là thiếu tình liên đới với nhau, khi chỉ chú ý đến quyền lợi riêng tư của mình. Ngôn ngữ tình yêu kêu gọi sự hiểu biết thông cảm với nhau, mang niềm vui, niềm hy vọng, sự tha thứ làm hoà và tình liên đới trong cuộc sống.

Ngày lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống năm xưa, các Thánh Tông Đồ đã tìm ra được ngôn ngữ chung cho hết mọi người. Ngôn ngữ này do Chúa mang đến và ghi khắc trong tâm hồn con người. Qua ngôn ngữ này ai cũng hiểu được tin mừng ơn cứu độ của Chúa và cùng nhau tìm về với Chúa, với nhau là anh em con một Chúa : ngôn ngữ tình yêu.

Chúa Thánh Thần mang từ trời cao đến cho con người ngôn ngữ của Chúa Cha, ngôn ngữ này khác gì là “tiếng mẹ đẻ” của con người : ngôn ngữ tình yêu – ngôn ngữ của toàn cầu. (Lm Nguyễn ngọc Long, Vietcatholic)

  1. Chứng từ : Người thầy giáo da đen

Năm 1917, tại một xóm nghèo bang Mississipi Hoa Kỳ, một toán người da trắng quá khích đã bủa vây bắt trói một thanh niên da đen vì nghi ngờ anh đang diễn thuyết kêu gọi đồng bào anh nổi loạn chống lại họ. Anh ta tên là Lawrence. Anh bị lôi đến một gốc cây, tròng dây thòng lọng vào cổ, dưới chân xếp một đống củi to. Đám đông ra lệnh cho anh được nói những lời cuối cùng trước khi chết…

Lawrence thầm cầu nguyện với Chúa Thánh Thần, rồi sau đó hiên ngang lên tiếng lặp lại tất cả những gì anh đã diễn thuyết trước đó cho người da đen. Anh bắt đầu bằng cách phác họa cảnh sống của hai dân tộc anh em da đen và da trắng trong sự tương trợ đoàn kết. Anh ngỏ ý sẽ tổ chức một ngôi trường để dạy cho đồng bào anh để họ xứng đáng sống bên cạnh người da trắng. Từ đó, hai bên sẽ dễ dàng hiểu biết và giúp đỡ nhau. Anh nêu tên một số người da trắng có uy tín trong vùng đã hứa tài trợ cho anh. Anh còn khéo léo nói vài câu duyên dáng làm cho đám đông bật cười. Cuối cùng, anh khẳng định : anh đấu tranh với sự dốt nát mù chữ và chống lại sự nghèo nàn lạc hậu, chứ không hề có ác ý với ai cả.

Anh vừa dứt lời, đám đông mới đây còn đòi giết anh, giờ đây lại hò reo hoan hô anh nhiệt liệt, ùa nhau đến tháo giây thòng lọng và công kênh anh lên. Lại có người đứng ra kêu gọi mọi người hãy giúp đỡ anh. Thế là người ta có bao nhiêu tiền đều móc ra, ném như mưa xuống dưới chân anh da đen nghèo xác xơ nhưng giàu thiện chí và hảo tâm…

Sinh ra ở miền Bắc Hoa Kỳ, Lawrence là con một bác thợ hớt tóc, được gia đình dành dụm nuôi ăn học đến hết bậc đại học. Ra đời, anh có thể tìm được việc ngay và có một đời sống sung túc nơi quê nhà, thế nhưng, cảnh cơ cực lam lũ của những đồng bào da đen đã thôi thúc anh bỏ tất cả để lưu lạc xuống miền Nam xin một chân thầy giáo làng cho người da đen. Chính ở đây, anh hiểu được nguyên nhân mọi khốn cùng người da đen phải gánh chịu là ở chỗ : đã dốt nát mù chữ mà lại còn mê tín dị đoan, và trắng tay, không biết một thứ nghề nào, từ đó họ lại càng bị người da trắng khinh bị đầy đọa. Ban ngày, Lawrence vất vả dạy học, tối đến, anh tự học thêm nghề trồng trọt, chuẩn bị cho ước mơ sẽ truyền nghề lại cho đồng bào.

Mùa xuân năm 1909, vừa tròn 24 tuổi, Lawrence khăn gói tìm tới khu xóm Braston có đông người da đen, dự định chọn nơi đây để mở trường. Anh đi tìm những người trại chủ da trắng để xin phép mở trường dạy nghề trồng trọt cho người da đen. Họ chả mấy tin tưởng vào lập luận của anh, nhưng họ cũng không có ý ngăn cản làm gì. Sau đó, anh lại đi vận động những người da đen chịu gom góp mỗi người một chút để có thể dựng trường. Họ vui mừng hy vọng lắm, nhưng vì nơi đây vừa mới bị mất mùa do nạn côn trùng tàn phá, họ lại quá nghèo nên chẳng góp được gì đáng kể. Nhưng Lawrence nhất quyết không chịu bó tay…

Một hôm, anh cầm theo cuốn Kinh Thánh, tìm ra ven rừng thanh vắng ngồi một mình dưới bóng một cây cổ thụ. Đang mải mê suy tư cầu nguyện, anh chợt bắt gặp một em bé da đen đang rụt rè nhìn anh từ xa. Anh gọi : “Nào em bé, lại đây chơi với anh đi !”Đứa bé tiến lại, nó thấy anh có cuốn sách đẹp thì mượn và cũng bắt chước cầm lên đọc chăm chú ra vẻ biết chữ. Lawrence phì cười khi thấy em cầm ngược đầu cuốn sách, anh vỗ vai em hỏi : “Chắc em thích đọc sách lắm phải không ? Vậy thì ngày mai em hãy trở lại đây, anh sẽ bắt đầu dạy cho em biết dọc biết viết nhé !”

Hôm sau trở lại gốc cây, Lawrence đã thấy em bé có mặt cùng với hai đứa nữa. Thế là ngôi trường đã khai giảng ngay dưới tán cây ven rừng với 3 trò nhỏ đầu tiên, hiệu trưởng kiêm thầy giáo duy nhất chính là Lawrence, và giáo án là cuốn Kinh Thánh ! Anh chọn bài giảng và tập đọc đầu tiên là một đoạn Lời Chúa nói về tình yêu thương. Được một lúc, anh nhìn quanh đã thấy một số người lớn da đen lấp ló ở các bụi cây gần đó, mải mê theo dõi như uống lấy từng lời giảng dạy giáo lý của anh. Thế là anh mời tất cả cùng ngồi vào để tập đọc đoạn văn được viết nắn nót trên tấm ván cũ. Sĩ số lớp học giờ đây gồm 5 trẻ em và 7 người lớn.

Ngày lại ngày, tiếng đồn lan ra, Lawrence thu nhận được hơn 50 học sinh. Mùa đông về, lớp học dời vào một căn nhà cũ nát bỏ hoang. Người trại chủ tốt bụng biết chuyện, tặng luôn cho anh căn nhà cùng với 16 mẫu đất bỏ hoang chung quanh và số tiền 50 đô-la. Các học sinh lớn xúm lại sửa chữa vách và mái nhà, làm lò sưởi và quét vôi. Anh lại tìm đến một trại chủ khác xin được một số lớn gỗ ván và mua chịu các vật dụng cần thiết cho ngôi trường.

Năm 1917, thoát được vụ hành quyết oan uổng như đã kể từ đầu, anh tạ ơn Chúa rồi lại quyết định mở một cuộc họp, mời tất cả những người da đen cùng các ân nhân người da trắng trong vùng đến nghe anh nói chuyện về dự kiến tương lai. Anh cho biết đây sẽ là ngôi trường nội trú cho các học sinh ở rải rác khá xa. Các em sẽ vừa học vừa làm để tự nuôi sống bằng việc canh tác khu đất quanh đây. Anh cũng xin mọi người có mặt đóng góp thêm để xây dựng một dãy lớp học mới vì sĩ số học sinh đã quá cao.

Vừa dứt lời, các ân nhân đã trao ngay cho anh một số tiền khá lớn, còn đồng bào da đen thì góp chung từng đồng xu lẻ dành dụm chắt bóp. Có người còn hứa tặng một phần hoa lợi vụ mùa sắp tới, người khác về nhà mang tới một bao bông vải hoặc nửa con lợn, một cặp ngỗng… và hầu hết đều hứa sẽ giúp công góp sức. Thế là hôm sau, cả đoàn những người đàn ông trai tráng kéo đến đốn cây, xẻ ván, dậm nền, dựng cột, xây vách. Phía các bà các cô thì buổi trưa mang cơm nước đến cho cánh thợ.

Qua năm 1910 thì ngôi trường hoàn tất, mang tên là “Ngôi Trường Thôn Quê”, cùng với số cả trăm học sinh tại chỗ còn có thêm 18 em từ xa về nội trú. Tất cả được học chữ, nấu bếp, cắt may và nghề mộc. Buổi tối, lớp xóa mù chữ có gần 100 em nhỏ. Mọi học sinh đều mang tới góp, người thì bao bột mì, người thì chú heo con để sử dụng chung thay vì đóng học phí và tiền ăn. Lawrence cũng mời được một số thầy cô giáo thiện chí đến giúp. Anh thường nhắc họ luôn cầu nguyện trong niềm chắc tin rằng mọi sự đều do Chúa ban và lo liệu, nhưng phần mình vẫn phải nỗ lực làm việc để cộng tác với Người…

Năm 1912, Lawrence cưới vợ, cả hai vừa gắng công dạy học, lại vừa đi khắp nơi xin các mạnh thường quân hỗ trợ để trả lương giáo viên và nuôi sống các học trò nghèo. Anh chị hễ cứ gặp những trẻ bơ vơ lang thang là lại dắt về nuôi ăn và cho học hành tử tế. Đặc biệt có một em 14 tuổi sống như thú hoang trong rừng, đã được Lawrence tìm thấy đem về trường. 8 năm sau, cậu thi đỗ tốt nghiệp trung cấp hướng nghiệp, và trong ngày nhận bằng, cử tọa đã say mê nghe cậu thuyết trình về điện và các loại động cơ. Lại còn gia đình anh Collins cùng bầy con 12 đứa nheo nhóc được nhận vào trường, 12 năm sau, ông bố Collins cũng cùng lên nhận bằng với vợ con.

Tính đến năm 1953, trường đã đào tạo được 1.700 học sinh đậu tú tài và 325 người tốt nghiệp đại học. Không ít những học viên giờ đây là trại chủ, dược sư, giáo sư, nhạc sĩ, ca sĩ, sĩ quan, linh mục và mục sư. Có người học tiếp để lấy bằng tiến sĩ ở đại học Chicago. Năm 1960, trường có sĩ số 500 em với 40 thầy dạy, 650 mẫu đất sở hữu cùng với những dãy lớp khang trang, những vườn cây ăn trái và hoa màu, cả những xí nghiệp chế tạo bơ, sữa tươi và những cơ xưởng hướng nghiệp được trang bị tối tân.

Nhà cầm quyền bang Mississipi cuối cùng cũng đã nhìn ra công lao hy sinh tận tụy và lòng yêu thương vô hạn đối với đồng bào da đen khốn khổ của ông Lawrence. Họ chính thức trao tặng ông tước hiệu “Công Dân Số Một của Bang Mississipi”. Sau khi ông qua đời, mới đây không lâu, người ta đã dựng tượng để ghi nhớ một tấm lòng vị tha cao quý. Tượng đài ghi hàng chữ : “Ông John Lawrence, một người con ngoan của Chúa, một thầy giáo tận tụy và một người bạn thân thương nhất của mọi người…”(Vietcatholic trích từ Tạp chí Tin Vui, 1974)

  1. Lễ Hiện xuống mới

Lần đầu tiên thành viên của 56 phong trào đoàn sủng và cộng đoàn mới của Giáo Hội tập họp lại theo lời mời của vị Đại Diện Chúa Kitô. Đức Gioan Phaolô II muốn cuộc tập họp khổng lồ này chứng tỏ để mọi người thấy Chúa Thánh Thần vẫn tiếp tục hiện xuống và đang canh tân bộ mặt trái đất.

Hôm ấy là thứ bảy 30 tháng 5, 1998, ngày áp lễ Hiện Xuống, có tới nửa triệu người đến từ khắp nơi trên thế giới. Riêng Âu Châu chừng 2,000 xe buýt chở khách tới Roma. Hàng triệu người coi truyền hình theo dõi biến cố này, qua 20 hệ thống truyền thông. Chưa bao giờ công trường Đền Thờ thánh Phêrô lại chật ních người tới mức đó, kể từ Năm Thánh 1950 đến nay.

Nhưng có phải chính Chúa Thánh Thần đã khơi dậy những phong trào đoàn sủng và những cộng đoàn mới này của Giáo Hội ? Ta hãy thử coi một số trường hợp.

Cộng Đoàn Thánh Êgiđiô

Cộng đoàn thánh êgiđiô là cộng đoàn từng tổ chức những buổi cầu nguyện do các vị lãnh đạo tôn giáo vì hoà bình thế giới, tại Assidi và ở nhiều nơi khác. Cộng đoàn này còn tổ chức những cuộc hoà đàm để chấm dứt chiến tranh tại Libăng, Ensavađo, Guatemala, Anbani, Acmêni, Angiêri, Etiôpi, Namibia, Môgiambic, v.v… Thế mà người khởi xướng, 30 năm trước đây, chỉ là một học sinh trung học cùng với các bạn trẻ 17-18 tuổi. Họ rắp tâm sống Tin Mừng và phục vụ người nghèo. Cậu học sinh lãnh đạo nhóm tên là Anrê Đinh Khang Đệ (Andrea Ricardi), nhưng số người nhập nhóm nay đã lên tới 15,000 người thuộc đủ mọi lứa tuổi và hiện có mặt trên 20 quốc gia. Sở dĩ họ tự xưng là Cộng Đoàn Thánh Êgiđiô, vì chính tại ngôi thánh đường nhỏ này ở Rôma, họ từng hẹn nhau tới họp. Ba điểm đặc sắc cơ bản của cộng đoàn này là cầu nguyện, tình bạn và phục vụ người nghèo. Ở đâu cộng đoàn này có mặt cũng đều có những chương trình phục vụ người nghèo như, bếp nấu cháo cho người nghèo, các bà săn sóc trẻ em túng thiếu nơi xóm nghèo, chương trình kèm học sinh sau giờ học, chương trình tự nguyện săn sóc bệnh nhân tại gia hoặc tại bệnh viện.

Lý do Cộng Đoàn Thánh Êgiđiô tham gia sinh hoạt liên tôn như tổ chức những buổi cầu nguyện tại Asidi, Nagasaki, v.v… hoặc tham gia sinh hoạt ngoại giao vì hoà bình thế giới, chính là để bảo vệ người nghèo mà thôi. Có thể nói, chiến tranh là mẹ đẻ ra khổ đau và chết chóc trên thế giới. Trong chiến tranh, chỉ có người giàu được hưởng lời nhờ bán vũ khí và những dụng cụ khác, còn người nghèo chỉ là nạn nhân. Thậm chí tôn giáo từng bị lạm dụng gây chết chóc tang thương cho dân nghèo. Do đó nhu cầu bảo vệ người nghèo khỏi chiến tranh bằng những sinh hoạt ngoại giao và những buổi cầu nguyện vì hoà bình thế giới.

Phong Trào FOCOLARE

Phong trào Focolare khởi đi từ một kinh nghiệm thần bí. Một cô sinh viên sư phạm nhân dự đại hội Công Giáo Tiến Hành tại thành phố Loretô, miền Nam Italia, chỉ muốn vào nhà thờ cầu nguyện một chút. Cô sinh viên 19 tuổi này tuyệt nhiên không tìm cho mình một bậc sống hoặc một đường tiến thân nào. Thế mà khi bước vào căn nhà Nadarét trong lòng nhà thờ Loretô, cô Chi Lan Lưu Bích (Chiara Lubich) bỗng thấy mình như bị tràn ngập trong một mầu nhiệm lớn lao. Mầu nhiệm nào ? Mầu nhiệm thánh gia thất Chúa Giêsu, Mẹ Maria và thánh Giuse. Tai cô như được nghe tiếng nói bập bẹ của cậu bé Giêsu và tiếng hát của Mẹ Maria vọng lại từ bốn bức tường. Công trình của thánh Giuse cũng hiển hiện trước mắt cô.

Thời gian đại hội kéo dài, ngày nào Chi Lan cũng một mình trở lại căn hộ Nadarét thân thương ấy với cũng một cảm xúc mạnh, cũng một ấn tượng sâu, như thể con người cô hoàn toàn ngập chìm giữa bao hồng ân từ trời cao.

Ấn tượng nổi bật trong thánh lễ kết thúc đại hội ấy là đám đông nữ sinh viên đội lúp trắng tràn ngập nhà thờ Loretô. Cô Lưu Bích được cho biết từ nội tâm rằng đó là hình ảnh về đám đông sẽ theo lối sống của cô. Lối sống nào ? Khi cha sở họ đạo nơi cô dạy học, hỏi cô về kết quả đại hội, cô liền thưa : “Con đã tìm ra lối sống cho con.” “Vậy là con sẽ lập gia đình ?” “Thưa không.” “Con sẽ vào dòng tu chăng ?” “Thưa không.” “Con sẽ sống độc thân giữa đời ?” “Thưa không.” Cha sở hoàn toàn không hiểu gì về lối sống trinh tiết giữa đời mà lại khăng khít trong liên đới cộng đoàn, là lối sống mà Chúa Giêsu, Mẹ Maria và Thánh Giuse đã sống.

Điều gây ngạc nhiên là bốn năm sau đó chẳng có gì xảy ra như hậu quả của kinh nghiệm thần bí nói trên, nhưng khi nó xảy ra thì lại ở giữa một hoàn cảnh rất bất lợi, tức là giữa những cuộc dội bom, bất kể đêm hay ngày, vào cuối thế chiến thứ hai tại Italia. Chi Lan và các bạn mỗi khi chạy đến hầm trú đã không quên mang theo sách Phúc Âm. Chính nơi hầm trú và giữa cảnh chiến tranh tàn khốc, họ được ban cho ơn nhận biết Thiên Chúa là Tình Yêu như lý tưởng duy nhất đời họ. Thâm tín ấy mãnh liệt đến nỗi đời họ được lôi kéo tham dự vào Tình Yêu của chính Thiên Chúa. Tới nay đã hơn nửa thế kỷ rồi thế mà họ vẫn sung sướng cam kết với nhau lời cam kết “Em yêu chị tới mức sẵn sàng chết vì chị” hoặc “Chị yêu em tới mức sẵn sàng chết vì em”. Cũng tình yêu ấy thúc đẩy họ phục vụ tha nhân.

Những bạn đầu tiên của cô Lưu Bích chẳng phải là những con người nổi nang, như Nga (Natalia Dallapiccola), cô gái mồ côi cha từ tuổi 16 nên phải lo vừa đi học vừa đi làm ; hoặc Đỗ Thị Ri (Doriana Zamboni), cô học trò không được lên lớp nên đến với cô Lưu Bích ban đầu chỉ để được kèm mà thôi v.v… Nhưng chính qua những con người loại đó mà ngọn gió Tin Mừng do Chúa Thánh Linh thổi cách mãnh liệt. Tại hầm trú họ đọc Tin Mừng chỉ để đưa ra thực thi. Kết quả thật lạ lùng. Những người theo gương họ ùn ùn kéo đến ban đầu từ 58 thôn xã nhỏ xung quanh thành phố Tân Đô tức Trentô. Khi chiến tranh chấm dứt năm 1945, đám người ấy mà con số lên tới 500, phải tìm đến họp tại phòng họp của nhà Dòng Tên tại Tân Đô thay vì tại nhà các cha Phanxicô như trước kia họ vẫn họp.

Ban đầu họ chỉ kể mình là Kitô hữu có bổn phận thực thi Phúc Âm nhưng Chúa an bài để Focolare trở nên như một cây xum xuê hiện nay với hơn 100,000 thành viên nòng cốt và hơn 2 triệu thân hữu đang góp phần xây dựng nền văn minh tình yêu hướng tới thế giới hiệp nhất.

Rao giảng Tin Mừng và huấn luyện các Kitô hữu vững theo bề sâu

Điều xảy ra với Cộng Đoàn Thánh Êgiđiô và Focolare minh họa lời Đức Gioan Phaolô II nói ngày 30 tháng 5, 1995. Ngài nhắc nhở mọi người có mặt về lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống đầu tiên có Đức Maria, Mẹ Chúa Giêsu và các môn đệ của Người tại nhà Tiệc Ly. “Điều đã xảy ra 2000 năm trước đây tại Giêrusalem thì nay như được làm mới lại nơi công trường Đền Thờ Thánh Phêrô như tâm điểm của Kitô giáo.” Điều mà Đức Thánh Cha nhấn mạnh là cần phải nhiệt thành rao giảng Tin Mừng, đồng thời huấn luyện những Kitô hữu vững vàng theo bề sâu. Ngài nói rằng chính các phong trào và các cộng đoàn mới của Giáo Hội là một đáp trả do Chúa Thánh Thần khơi dậy để đối phó với thách đố gay cấn ở cuối thiên niên kỷ thứ hai. Vậy Đức Gioan Phaolô II hướng về phía các thành viên các phong trào và các cộng đoàn mới của Giáo Hội và nói với họ : “Chính anh chị em là một đáp trả sống động với thách đố cuối thiên niên kỷ thứ hai.” Và để kết luận, ngày nói với họ : “Hôm nay, từ công trường này, Chúa Giêsu kêu gọi từng người giữa anh chị em khi tuyên bố : các con hãy đi đến với thế giới và hãy rao giảng Tin Mừng cho mọi thọ tạo (Mc 16,15). Quả thật, Chúa Giêsu tin tưởng nơi mỗi người anh chị em và Giáo Hội cùng chung một niềm tin tưởng đó.”

Vậy bài Tin Mừng hôm nay (Ga 20,19-23) nói về Chúa Giêsu Phục Sinh hiện ra và ban Thánh Thần xuống trên các môn đệ xưa không thể xa lạ với những điều được người kế vị tông đồ Phêrô xác chuẩn như vừa nói.

Xưa Đức Kitô sống lại đến với các môn đệ để ban cho họ ơn bình an (20,19-21) và niềm vui (20,20). Cở sở của bình an và niềm vui chính là tình yêu toàn thắng của Đức Kitô như được ghi lại nơi tay và cạnh sườn Người (c.20).

Nhưng Chúa Giêsu phục sinh đến không chỉ để làm cho các môn đệ được vui và bình an. Những ơn ấy phải tràn ngập thế giới. Lý do vì các môn đệ tiếp nối cùng một cuộc sai phái khởi đi từ Chúa Giêsu : “Như Chúa Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai anh em” (c. 21). Sức sống mới mà các môn đệ đón nhận từ Đấng Phục Sinh là Thánh Thần mà Chúa Giêsu thổi trên các ông (c.22). Xưa trong Cựu Ước, Thiên Chúa đã thổi sinh khí vào con người (St 2,7) và ban sự sống, thì nay Đấng Phục Sinh cũng thổi Thần Khí của Người trên các môn đệ. Đó là công cuộc tạo thành mới do Đức Kitô Phục Sinh nhờ Thánh Thần và qua các môn đệ.

Các môn đệ đón nhận sự sống mới của Đấng Phục Sinh nhờ Chúa Thánh Thần nên đã làm chứng và loan Tin Mừng đó cho thế giới. Giáo Hội tiếp nối cũng công trình đó. Cho nên cuộc tập họp thành viên của 56 phong trào đoàn sủng và cộng đoàn mới của Giáo Hội ngày 30 tháng 5,1998 thực là hình ảnh của một lễ Hiện Xuống được nối dài. (Linh mục Augustine, sj. Trích Vietcatholic)

  1. Quyền Năng Tha Tội

Trong một lần giáo huấn, Chúa Giêsu đã quả quyết với các Tông đồ : “Sự gì các con cầm buộc dưới đất, trên trời cũng cầm buộc. Sự gì các con cởi mở dưới đất, trên trời cũng cởi mở” (Mt 18,18). Và hôm nay, sau ngày phục sinh, trong một lần hiện ra với họ, Chúa Giêsu đã phán : “Các con hãy nhận lấy Thánh Thần, các con tha tội cho ai thì tội người ấy được tha. Các con cầm tội ai thì tội người ấy bị cầm lại”. (Gn 19, 22-23). Khi nói lên lời đó, Ngài chính thức thiết lập Bí tích Giải tội, ủy thác cho Hội thánh quyền năng tha thứ và cầm buộc. Quyền năng nầy không chỉ được trao ban cho các Tông đồ nhưng còn thông chuyển đến các đấng kế vị là các Giám mục và những linh mục hiệp thông với các ngài.

Qua lời tuyên bố thiết lập Bí tích Giao hòa Chúa Giêsu muốn nói với các vị thừa tác viên đầu tiên và những người kế nghiệp rằng : một khi dưới đất họ đọc lên lời tha tội “Nhân danh Cha và Con và Thánh Thần” thì lập tức trên trời Ngài sẽ chuẩn y, và dù tội con người có thẫm như máu đào cũng sẽ được biến đổi tinh trắng như bông.

Trong Tông thư Reconciliation and Penance, Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II đã khẳng định : “Khơi dậy lòng sám hối và thay đổi tâm hồn nhân thế cùng trao ban cho con người tặng phẩm giao hòa chính là sứ mạng đặc thù của Hội thánh khi tiếp nối công trình cứu độ của Đấng Sáng Lập”.

Có người đặt vấn đề : Tại sao lại phải đi xưng tội với một linh mục ? Tới thẳng với Chúa không được sao ?

Lẽ dĩ nhiên Chúa Giêsu có trăm muôn ngàn cách tha thứ tội lỗi con người, nhưng phương cách Ngài “làm người” để cứu thế và “chọn con người” để thi hành quyền năng tha tội là một ý định tỏ tường. Tuy nhiên, bên cạnh ý định của Thiên Chúa cũng có đó một số lý do khiến cho việc xưng tội với một linh mục trở nên cần thiết.

Catholicism and Life có chỉ ra những lý do như sau :

Thứ nhất, vì “có những tội được tha và có những tội bị cầm” nên hối nhân phải xưng tội mình ra thì linh mục mới có thể xác định được tội nào được tha và tội nào bị cầm.

Thứ hai, việc xưng tội với một linh mục sẽ giúp cho con người trở nên khiêm tốn. Người ta dễ chừa tội hơn khi biết rằng nếu mình phạm, mình sẽ phải xưng.

Thứ ba, chắc chắn hối nhân sẽ đón nhận được ơn thánh hóa từ bí tích Hòa giải. Nhưng trước đó, họ sẽ nhận được những lời khuyên hữu ích từ vị linh mục, giúp họ thăng tiến hơn trên đường thiêng liêng.

Thêm vào đó, có không ít khuynh hướng nhiệm nhặt hay buông thả khiến cho có người quá khắt khe, thấy điều chi cũng tội, hay có người qua lỏng lẻo đến nỗi bao tội tày trời cũng cho là chẳng có gì ghê gớm. Thậm chí có khi còn biện minh để lương tâm thấy tội nhẹ đi hay không còn tội lỗi gì nữa. Vì vậy, nếu không có sự trợ giúp của vị linh mục làm sao người ta có thể quân bình với chính mình và chân thành với Thiên Chúa được.

Cuối cùng, khi ban ơn tha tội, vị linh mục thay mặt Chúa sẽ bảo đảm ơn tha thứ cho hối nhân. Đối với người đi “xưng thẳng” với Chúa, ai sẽ đoan quyết cho điều đó ? Chắc chắn không ai hết.

Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II đã cảnh cáo những người cho mình không cần Bí tích Giải tội như sau : “Thật là điên rồ và kiêu căng đối với những ai tự ý coi thường phương thế trao ban ơn sủng và cứu thoát mà chính Chúa Giêsu thiết lập, nhất là đối với những kẻ cho rằng không cần đến Bí tích Giải tội để được tha tội”.

Có nhiều người vì ý thức lệch lạc nên coi thường xưng tội, nhưng cũng có không ít người vì đánh mất cảm thức về tội nên không còn thấy cần đi xưng tội nữa. Thậm chí có người xấu hổ ngại ngùng khi phải thú nhận tội mình với kẻ khác. G.K. Chesterton, một nhà văn trở lại Công giáo đã viết : “Không việc gì phải xấu hổ về những dại dột của mình… Đã là con người không ai không có lỗi lầm, nhưng lỗi lầm kinh khủng nhất của con người là cho mình không có lỗi”. Thánh Gioan Tông đồ viết thẳng thừng hơn : “Nếu ta nói : ta không có tội là ta tự lừa dối mình, và sự thật không có trong ta” (1 Gn 1,8). Trái lại, “Nếu ta xưng thú tội lỗi mình thì Người trung tín và công chính đủ để tha thứ tội lỗi cho ta, và tẩy ta khỏi mọi bất chính” (1 Gn 1,9).

Một điều luôn gắn liền với Bí tích Giải tội là “ấn tòa” mà tất cả mọi linh mục phải tuân giữ. Không một điều gì nghe trong toà mà cha giải tội lại được phép nói ra cho người thứ ba, dù tính mạng của mình bị đe dọa hay an ninh quốc gia được bảo toàn.

Lịch sử Giáo hội ghi nhận biết bao hình ảnh hào hùng của những con người dám lấy máu đào bảo vệ đức tin, trong đó cũng có hình ảnh của những linh mục dám lấy mạng sống bảo vệ “ấn tòa giải tội”.

Cha Gioan Nepomucene là mẫu gương tiêu biểu trong thế kỷ 14. Ngài là cha giải tội của Hoàng hậu Jane, nước Bohemia. Vua Wenceslaus là người đa nghi và ghen tuông. Vì muốn biết Hoàng hậu đã làm điều chi thầm lén nên vua yêu cầu cha Gioan thuật lại những gì nàng xưng ra với Ngài.

Tưởng rằng quyền lực và uy thế của mình có thể khui được ít nhiều bí mật nơi miệng cha Gioan, nhưng vua đã lầm. Vị linh mục của Chúa nhất quyết không hé lộ bất cứ điều gì. Kết quả, ngài bị nhốt vào hầm tối, và một đêm kia, bị nhận nước cho đến chết.

Ba trăm năm sau, khi khai quật lăng mộ cha Gioan, những người hữu trách ngỡ ngàng chứng kiến thân thể ngài mục hoàn toàn, ngoại trừ chiếc lưỡi vẫn nguyên vẹn như lúc còn sống. Ngày nay, trên chỗ ngài bị giết người ta dựng lên một tượng đài, phía dưới chân có khắc dòng chữ : “Nơi đây vị chứng nhân của Ấn toà Giải tội đã nằm xuống”.

Trước khi về trời, Chúa Giêsu đã trao ban cho các Tông đồ món quà vô giá là Chúa Thánh Thần và quyền năng tha tội. Sứ mạng của các ngài và những người kế vị sẽ là việc làm nảy sinh hoa trái cho toàn nhân loại. Biết khiêm tốn mở lòng đón nhận ơn tha thứ, con người sẽ tìm thấy bình an và sự sống đích thực, dù thần chết có đang hăm he rình chờ. Biết tìm đến cùng tòa cáo giải, tâm hồn sẽ được chữa lành và ngập tràn hân hoan. (Lm Bùi Quang Tuấn, CSsR, Trích từ Vietcatholic)

7. Khai sinh giáo hội truyền giáo

Giải Nobel Hòa bình năm 2000 đã được trao cho Tổng thống Hàn Quốc Kim Dae-Jung, một con người đã từ 30 năm nay đấu tranh không mệt mỏi cho công bằng, dân chủ và hòa hợp.

Tổng thống Kim là một người Công giáo, được Đức cố Tổng Giám Mục Seoul rửa tội vào năm 1956. Trong một đất nước chỉ có 10% dân số là Công giáo thì sự kiện này cũng đang nhắc nhớ về sự dấn thân của Giáo hội Công giáo tại lục địa Á Châu này.

Phần thưởng này đã được các vị lãnh đạo và chức sắc tôn giáo ở Hàn Quốc hân hoan chúc mừng. Một vị Hòa thượng lãnh đạo một Tông phái Phật giáo lớn nhất ở Hàn Quốc nhận định như sau : “Tổng thống Kim Dae-Jung sẽ được ghi nhớ như một vị lãnh đạo nổi bật của thế giới”.

*

Lễ Hiện Xuống là lễ khai sinh một Giáo hội truyền giáo.

LỜI CHÚA MỖI NGÀY
16/07/2022
CHỈ CÓ MỘT ĐIỀU CẦN (Suy niệm Tin Mừng Chúa Nhật 16 TNC)

CHỈ CÓ MỘT ĐIỀU CẦN (Suy niệm Tin Mừng Chúa Nhật 16 TNC)

Đọc tiếp...
09/07/2022
Ai là người thân cận (10.7.2022 – Chúa nhật 15 TN, Năm C)

Ai là người thân cận (10.7.2022 – Chúa nhật 15 TN, Năm C)

Đọc tiếp...
02/07/2022
Xatan từ trời sa xuống (03.7.2022 Chúa Nhật 14 TN Năm C)

Xatan từ trời sa xuống (03.7.2022 Chúa Nhật 14 TN Năm C)

Đọc tiếp...
29/06/2022
Anh là tảng đá (29.6.2022 – Thứ Tư- Lễ thánh Phêrô và thánh Phaolô tông đồ)

Anh là tảng đá (29.6.2022 – Thứ Tư- Lễ thánh Phêrô và thánh Phaolô tông đồ)

Đọc tiếp...
25/06/2022
Trước đã (26.6.2022 – Chúa Nhật 13 TN năm C)

Trước đã (26.6.2022 – Chúa Nhật 13 TN năm C)

Đọc tiếp...
18/06/2022
Ngài cầm bánh bẻ ra - (19.6.2022 Chúa Nhật 12 TN - Lễ Mình và Máu Thánh Chúa Kitô)

Ngài cầm bánh bẻ ra - (19.6.2022 Chúa Nhật 12 TN - Lễ Mình và Máu Thánh Chúa Kitô)

Đọc tiếp...
12/06/2022
Dẫn tới sự thật toàn vẹn (12.6.2022 – Chúa Nhật Chúa Ba Ngôi, Năm C)

Dẫn tới sự thật toàn vẹn (12.6.2022 – Chúa Nhật Chúa Ba Ngôi, Năm C)

Đọc tiếp...
04/06/2022
Hãy nhận lấy Thánh Thần (05.6.2022 – Chúa Nhật Chúa Thánh Thần Hiện xuống)

Hãy nhận lấy Thánh Thần (05.6.2022 – Chúa Nhật Chúa Thánh Thần Hiện xuống)

Đọc tiếp...
21/05/2022
Đến và ở lại (22.5.2022 – Chúa Nhật 6 Phục Sinh)

Đến và ở lại (22.5.2022 – Chúa Nhật 6 Phục Sinh)

Đọc tiếp...
14/05/2022
Điều Răn Mới (15.5.2022 – Chúa Nhật Tuần 5 Phục Sinh)

Điều Răn Mới (15.5.2022 – Chúa Nhật Tuần 5 Phục Sinh)

Đọc tiếp...
Thống kê truy cập
  • ĐANG ONLINE : 0
  • TỔNG LƯỢT TRUY CẬP: 236932